Ông bà ngoại tôi có sáu người con, mẹ tôi con đầu, sau lưng
là bốn dì, chốt cuối cùng là cậu. Ông tôi nhờ bình dân học vụ mà biết được ít
chữ, trong làng, người như ông không nhiều. Ông làm gì đó ngoài xã, nôm na là
làm cán bộ. Tôi thấy người ta làm cán bộ sướng bắt chết, còn ông tôi đi tối
ngày, không thăm đồng thì lại thăm đồng, quần lúc nào cũng vo lủng liểng ngang
bắp chân.
Bàn chân ông, lắm khi lên phản ngủ vẫn còn dính bùn. Đến vụ,
nhà người ta cày bừa xong xuôi mới tới nhà tôi, lắm khi phải cấy mạ già. Bà với
các dì tôi cằn nhằn, ông nói mình phải đi sau bà con, bà bĩu môi: mẹ con tôi chả
nhờ ông được cái gì.
Nói thì nói thế, ông rất nghiêm khắc và công bằng. Bà có mỗi
mụn con trai, cưng như trứng. Ông thì không, càng con trai ông càng đánh tợn.
Có bữa cậu trốn học, bị ông cho ăn đòn, cậu giận bỏ nhà ra đi. Bà với các dì đốt
đuốc đi tìm cả đêm không thấy, sáng hôm sau tôi mở chuồng bò thấy cậu ngáy pho
pho trên gác chuồng. Ông kéo cậu xuống, lại cho một trận.
Chả riêng gì cậu, tôi cũng ăn đòn no nê bởi tính ham chơi
tinh nghịch của mình.
Lâu lâu, ông mang về những tờ báo Nhân Dân cũ để dành bọc vở.
Tôi lấy vở cũ của cậu, dùng cơm nhão dán hai tờ thành một, mang bọc vở, còn
báo, tôi nâng niu để dành, lúc chăn bò mang vào đồng đọc. Báo Nhân Dân chả có
gì hay, toàn chuyện gỉ chuyện gì, tôi không quan tâm, chỉ thấy được đọc là
thích. Đến nỗi, không biết bao nhiêu lần, cậu đi học mà không thể nào tìm thấy
quyển sách Văn học của mình. Cậu mếu máo bắt đền ông vì biết nó đã theo tôi đi
học. Có lần tôi bị cậu xoắn đỏ nhừ tai cũng vì tội đó.
Một lần vừa nấu cơm vừa đọc, lửa cháy lan, suýt đốt luôn
thùng trấu. Ông biết chuyện, tôi đinh ninh phen này mình sẽ nuôi một đàn lươn
trạch trên mông.
- Sách hay lắm à?
- Vâng.
- Cháu hiểu gì không?
- Có chứ ạ.
Ông nhìn tôi cười. Ông bảo: Sách không làm người ta no,
không làm người ta ấm, nhưng sách là không khí giúp con người tồn tại. Tôi há mồm
nghe, không hiểu gì hết. Tôi có thể nhịn ăn nhịn uống cả ngày để đọc sách, sao
ông nói sách không thể làm no? Ông bắt đầu mang sách về cho tôi đọc. Một con bé
học lớp Ba thì làm sao hiểu hết nội dung những cuốn sách đó. Nhưng sách lại
giúp tôi thỏa cơn khát được ngắm nhìn những con chữ.
Ông xoa đầu tôi, thở dài:
- Mẹ mày chả được học mấy chữ, mày phải học thay mẹ nghe
chưa!
Lớn lên, tôi mất đi một số thói quen, một số đam mê, cũng nhận
về một số thói hư tật xấu khác. Duy có đọc sách là chưa bao giờ mất đi trong
tôi. Tôi cầm quyển sách lên, ngắm hai tờ bìa xong, bắt đầu đọc. Nếu không có ai
gọi, tôi sẽ chỉ bỏ quyển sách xuống khi đến trang cuối cùng. Cho đến bây giờ,
tôi vẫn bị thói quen đó làm... hư mắt. Mỗi lần đọc sách, khi đọc những chữ đầu
tiên, tôi thường nhớ tới ông.
Người thầy đầu tiên trong đời tôi, người mà tôi có thể tự
tin nói rằng, sẵn sàng cho tôi cả cuộc đời mà không chút phân vân. Vì tôi là
cháu ông. Là đứa cháu đầu tiên ông có. Và là đứa cháu duy nhất, chưa bao giờ biết
chùn bước trước thử thách ông đưa ra, dù đó là cầm tay bốc đỉa hay trong mười
lăm phút, có thể chạy như bay vào đồng, thông báo chuyện gì cho ai đó.
Ông gọi tôi là con bé rạch trời rơi xuống. Rạch, là nó tự rạch
chứ không phải do trời rách mà nó rơi.
Mười bảy năm, ông về bên kia bầu trời. Trong tôi, những câu
nói, những hình ảnh của ông vẫn còn rõ nét. Tôi cảm ơn số phận đã cho tôi tuổi
thơ nghèo khó nhưng ăm ắp nụ cười. Tôi cảm ơn bố mẹ đã cho tôi về ở với ông,
người thầy nông dân chân đất nhưng có cách nghĩ, cách làm luôn khiến người khác
kính phục, và trân trọng. Để bây giờ, mỗi khi nghĩ lại những ngày tháng đó, tôi
thấy mình bồng bềnh như trôi...